Mục lục
VNHS - Thời gian vừa qua, ngành lâm nghiệp đã chủ động, tích cực ứng dụng khoa học công nghệ trong quản lý, bảo vệ và phát triển rừng. Cụ thể là Tổng Cục Lâm nghiệp đã xây dựng Hệ thống nền thông tin quản lý ngành lâm nghiệp (Hệ thống FORMIS). Hệ thống này đóng vai trò là nền tảng (Platform) để tiếp nhận, tích hợp, kết nối các phần mềm/ứng dụng chuyên ngành, phục vụ cho việc cập nhật dữ liệu, hình thành hệ thống cơ sở dữ liệu (CSDL) chuyên ngành lâm nghiệp.
Hiện nay, các phần mềm chính đang vận hành thường xuyên để cập nhật thông tin, dữ liệu phục vụ công tác chỉ đạo, điều hành gồm: Phần mềm giám sát đánh giá chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững (Cục Lâm nghiệp, Cục Kiểm lâm và Chi cục Kiểm lâm/Sở NNPTNT các địa phương vận hành, cập nhật hàng tháng các chỉ tiêu thống kê lâm nghiệp và các nhiêm vụ thuộc Chương trình phát triển lâm nghiệp bền vững); Phần mềm theo dõi diễn biến rừng (Cục Kiểm lâm và Chi cục Kiểm lâm các địa phương vận hành, cập nhật thường xuyên về diễn biến rừng); Ứng dụng quản lý điều hành/báo cáo trực tuyến của Cục Lâm nghiệp.
Ngoài ra, các đơn vị trong lĩnh vực lâm nghiệp đã xây dựng và ứng dụng công nghệ 4.0 để tạo ra nhiều sản phẩm công nghệ có ứng dụng thực tế cao, góp phần quản lý hiệu quả nguồn tài nguyên rừng.
Tuy nhiên, do xây dựng từ lâu (năm 2013), nên đến thời điểm hiện tại, hệ thống nền tảng có nhiều tính năng, tiện ích không còn phù hợp để đáp ứng yêu cầu quản lý, sử dụng ngày càng cao.
Trong giai đoạn mới, ngành lâm nghiệp phải đối mặt với nhiều thách thức, như: các vụ vi phạm về phá rừng, lấn chiếm đất rừng vẫn diễn ra, khai thác thác tài nguyên rừng không bền vững dẫn đến suy thoái hệ sinh thái rừng; cạnh tranh thương mại đối với các mặt hàng từ gỗ ngày càng lớn, đòi hỏi nguồn gốc xuất xứ rõ ràng của sản phẩm từ rừng... Do đó, cần tăng cường các giải pháp quản lý hiệu quả hơn để quản lý, bảo vệ, phát triển tài nguyên rừng bền vững, đồng thời, nâng cao giá trị đa dụng của hệ sinh thái rừng và đảm bảo các sản phẩm lâm sản có nguồn gốc hợp pháp. Đây là lúc chúng ta cần phát triển đồng thời, vừa duy trì động lực từ thị trường, vừa khai phá thêm động lực mới từ khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo.
Tại Hội thảo "Ứng dụng công nghệ cao trong quản lý sản xuất lâm nghiệp bền vững" mới được tổ chức gần đây, nguyên Bộ trưởng Bộ NN-PTNT Cao Đức Phát cho biết, một thời gian dài, ngành lâm nghiệp tập trung vào việc tăng tỷ lệ che phủ rừng, lấy động lực thị trường làm sức bật tăng trưởng. Nguyên Bộ trưởng cho rằng công nghệ số, giống và chế biến sẽ là những trụ cột chính của ngành lâm nghiệp.
Theo Cục trưởng Cục lâm nghiệp Trần Quang Bảo, công nghệ về giống giúp nâng cao năng suất, chất lượng rừng trồng. Điều này đặc biệt hữu ích khi Việt Nam mỗi năm trồng tái canh khoảng 260.000ha rừng và dư địa phát triển diện tích trồng rừng không nhiều.
Ông Trần Quang Bảo cũng cho biết, năng suất gỗ rừng trồng trung bình của nước ta hiện khoảng 15-18 m3/ha/năm, khá thấp so với năng suất trong mô hình khảo nghiệm là 30 m3/ha/năm. Do đó, việc nghiên cứu, chọn tạo ra các giống mới không những giúp mở rộng diện tích trồng rừng gỗ lớn, mà còn thuận tiện cho việc cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững, hay mới đây là mã số vùng trồng rừng.
Bên cạnh công nghệ giống, công nghệ số trong viễn thám để kiểm tra, giám sát hiện trạng rừng, cũng như cập nhật dữ liệu rừng, cảnh báo cháy rừng... một cách tự động, giúp cán bộ kiểm lâm địa bàn nắm chắc các biến động về rừng. Từ đó, giúp giảm nhân lực và tăng cường độ chính xác trong thông tin.
Hoàng Bình