Theo Thông tư số 27/2025/TT-BNNMT của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, nhiều loài chim rừng thuộc nhóm nguy cấp, quý hiếm đã được đưa vào Danh mục loài nguy cấp, quý, hiếm được ưu tiên bảo vệ. Trong đó, ngoài gà lôi trắng, danh sách này còn có sự góp mặt của nhiều giống gà đặc hữu và giá trị như gà so cổ hung, gà lôi lam mào trắng, gà tiền mặt vàng và gà tiền mặt đỏ. Đây đều là những loài có vùng phân bố hẹp, số lượng ngoài tự nhiên suy giảm nghiêm trọng, cần được bảo tồn khẩn cấp nhằm gìn giữ đa dạng sinh học và cân bằng hệ sinh thái.
Gà so cổ hung (Arborophila davidi)
![]() |
Gà so cổ hung là loài chim phân bố chủ yếu ở phía nam Việt Nam và Campuchia. Loài này sinh sống trong các khu rừng thấp, đồi có nhiều tre nứa hoặc bụi rậm, đôi khi xuất hiện tại các đồn điền đã khai thác hoặc các khu vực rừng thứ sinh. Về đặc điểm hình thái, gà dài khoảng 27 cm, màu lông chủ yếu là nâu nhạt, ở cổ có vòng màu cam sáng tạo nét nhận dạng đặc trưng. Dù đã được tái phát hiện vào năm 1991 tại Vườn quốc gia Cát Tiên, số lượng loài vẫn rất ít và bị đe dọa. Gà so cổ hung hiện được Liên minh Bảo tồn Thiên nhiên Quốc tế (IUCN) đánh giá ở mức Gần bị đe dọa.
Gà lôi lam mào trắng (Lophura edwardsi)
![]() |
Gà lôi lam mào trắng là loài đặc hữu của Việt Nam, phân bố trong các khu rừng ẩm ở miền Trung như Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị và Thừa Thiên Huế. Đây là một trong những loài chim thuộc bộ Gà nguy cấp nhất thế giới, được IUCN xếp vào nhóm Cực kỳ nguy cấp với số lượng cá thể trưởng thành chỉ còn dưới 250 cá thể, và không có ghi nhận trực tiếp nào trong tự nhiên kể từ năm 2000.
Một số cá thể hiện được nuôi giữ tại các vườn thú trong khuôn khổ chương trình bảo tồn quốc tế nhằm mục tiêu phục hồi loài trong tương lai. Loài này rất nhút nhát, khó quan sát trong tự nhiên; môi trường sống của nó đang bị phân mảnh nghiêm trọng và tiếp tục suy giảm.
Gà tiền mặt vàng (Polyplectron bicalcaratum)
![]() |
Gà tiền mặt vàng, còn gọi là gà công lam xám, phân bố rộng khắp Đông Nam Á. Chúng ăn đa dạng các loại hạt, quả, côn trùng và sinh vật nhỏ, thường kiếm ăn bằng cách cào bới mặt đất.
Tình trạng bảo tồn của loài hiện vẫn ổn định, được IUCN xếp vào nhóm Ít quan tâm, tuy nhiên loài này vẫn thuộc diện cần kiểm soát buôn bán theo CITES Phụ lục II. Gà tiền mặt vàng thường sống trong rừng nguyên sinh hoặc rừng thứ sinh có tán cây dày và lớp bụi rậm. Trong mùa sinh sản, con trống tạo các vệt trống trình diễn trên mặt đất để thu hút bạn tình.
Gà tiền mặt đỏ (Polyplectron germaini)
![]() |
Gà tiền mặt đỏ phân bố giới hạn ở miền Nam Việt Nam và Campuchia, dễ gặp ở các khu rừng nhiệt đới ẩm như Vườn quốc gia Cát Tiên. Chúng ưa sống trong các rừng thường xanh hoặc bán thường xanh, nơi có nhiều tầng bụi dưới tán rừng.
Loài có chiều dài trung bình khoảng 60 cm, đặc trưng bởi vùng da mặt màu đỏ, bộ lông nâu điểm các mắt lông xanh tím trên thân và đuôi. Cả trống và mái khá giống nhau, nhưng con mái nhỏ hơn. Chúng thường đẻ khoảng hai quả trứng màu trắng kem. Gà tiền mặt đỏ được IUCN xếp vào nhóm Dễ bị tổn thương và nằm trong CITES Phụ lục II, cần được kiểm soát buôn bán và bảo tồn nghiêm ngặt.
Gà lôi tía (Tragopan temminckii)
![]() |
Gà lôi tía, còn gọi là gà lôi Temminck, là một trong những loài chim trĩ đẹp nhất thế giới, nổi bật với bộ lông rực rỡ và hoa văn đặc sắc. Con trống có màu đỏ tươi ở ngực và bụng, phần lưng và cánh điểm những đốm trắng viền đen trông như những cánh hoa, đầu và mặt xanh lam rực rỡ. Khi vào mùa sinh sản, gà trống còn xòe mào và túi cổ màu xanh, tạo nên màn trình diễn ấn tượng để thu hút bạn đời.
Loài này sinh sống chủ yếu ở vùng núi cao, rừng rậm hoặc ven rừng tại dãy Himalaya và các khu vực Đông Nam Á, trong đó có một số quần thể ghi nhận ở Việt Nam. Gà lôi tía thường kiếm ăn vào sáng sớm và chiều muộn, thức ăn gồm hạt, quả rừng, chồi non và côn trùng.
Gà so họng trắng (Arborophila brunneopectus)
![]() |
Gà so họng trắng phân bố chủ yếu ở rừng thường xanh, rừng tre nứa và các khu vực rừng hỗn giao của Việt Nam, Lào, Campuchia và một phần Trung Quốc. Loài này có kích thước trung bình, phần họng và ngực trên có màu trắng đặc trưng, lưng và cánh mang sắc nâu xám, đuôi ngắn. Chúng sống theo cặp hoặc nhóm nhỏ, thường kiếm ăn dưới mặt đất bằng cách bới lá khô để tìm hạt, quả rụng, côn trùng và các loài thân mềm. Gà so họng trắng đóng vai trò quan trọng trong hệ sinh thái rừng vì góp phần phát tán hạt giống. Số lượng quần thể loài đang suy giảm do mất sinh cảnh và săn bắt quá mức, nên được xếp vào nhóm động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm.
Gà so ngực gụ (Arborophila chloropus)
![]() |
Gà so ngực gụ là loài chim thuộc họ Trĩ (Phasianidae), có kích thước nhỏ gọn, thường dài khoảng 25–29 cm, phân bố ở một số nước Đông Nam Á, bao gồm cả Việt Nam. Đặc điểm dễ nhận biết nhất của loài này là phần ngực màu nâu gụ đậm, tương phản với bụng nhạt hơn; đầu và cổ có những vệt sọc trắng xen kẽ đen, tạo nên vẻ nổi bật nhưng vẫn hài hòa với môi trường rừng rậm.
Loài này sinh sống chủ yếu trong các khu rừng thường xanh và rừng tre nứa ở vùng đồi núi thấp đến trung bình. Chúng thường đi thành đôi hoặc nhóm nhỏ, kiếm ăn dưới tán rừng vào sáng sớm và chiều muộn. Thức ăn của gà so ngực gụ khá đa dạng, bao gồm hạt, quả nhỏ, mầm non, côn trùng và các loài thân mềm nhỏ.
Gà so họng màu hung (Arborophila rufogularis)
![]() |
Loài này sinh sống chủ yếu trong các khu rừng núi ở Ấn Độ và Đông Nam Á. Loài dài khoảng 26–29 cm, con trống nổi bật với họng màu cam hung pha điểm đen và ngực xanh xám. Chúng sống theo bầy khoảng 5–10 cá thể, ăn nhiều loại thức ăn như hạt, côn trùng và ốc sên. Hiện IUCN xếp đây vào nhóm Ít quan tâm, tuy nhiên nạn mất rừng và săn bắt vẫn khiến số lượng suy giảm.
Gà so họng đen (Arborophila torqueola)
![]() |
Loài này phân bố tại Ấn Độ, Nepal, Bhutan, Tây Tạng, Myanmar, Thái Lan và Việt Nam. Loài này thuộc chi Arborophila, dễ nhận dạng qua vùng họng tối màu.
Gà lôi hông tía (Lophura diardi)
![]() |
Gà lôi hông tía là một trong những loài gà lôi có vẻ đẹp nổi bật nhất trong họ Trĩ (Phasianidae). Loài này phân bố chủ yếu ở Lào, Campuchia, Thái Lan và Việt Nam, trong đó ở Việt Nam thường gặp tại các khu rừng già thuộc vùng núi phía Bắc và miền Trung, đặc biệt là ở các khu bảo tồn và vườn quốc gia có độ cao từ 200–1.200 m.
Điểm dễ nhận biết nhất của gà lôi hông tía là bộ lông óng ánh với phần hông và đuôi có ánh tím tía rực rỡ khi gặp ánh sáng, kết hợp với mảng lông bụng trắng tinh và đôi chân đỏ khỏe khoắn. Con trống thường có mào dài màu đen, thân hình thon gọn nhưng săn chắc; con mái có màu lông nâu nhạt pha xám, giúp ngụy trang tốt trong môi trường tự nhiên.
Loài này thường sống đơn lẻ hoặc theo cặp, ưa kiếm ăn dưới tán rừng rậm, thức ăn bao gồm hạt, quả rừng, mầm cây non và một số loài côn trùng nhỏ. Mùa sinh sản diễn ra từ tháng 3–6, tổ thường đặt ở các bụi rậm sát mặt đất, mỗi lứa đẻ khoảng 4–6 trứng.