Hội thảo quốc gia về loài ngoại lai xâm hại: Giải pháp bền vững cho môi trường Việt Nam
Ngày 31/7, trong khuôn khổ Dự án “Hỗ trợ hành động sớm” do Quỹ Môi trường Toàn cầu (GEF) tài trợ thông qua Chương trình Môi trường Toàn cầu – GEF EAS, Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp cùng Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tại Việt Nam đã tổ chức hội thảo quốc gia với chủ đề “Tăng cường quản lý loài ngoại lai xâm hại tại Việt Nam”. Đây là sự kiện có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh hệ sinh thái tự nhiên của Việt Nam đang ngày càng chịu tác động từ sự lan rộng và ảnh hưởng nghiêm trọng của các loài sinh vật không bản địa.
![]() |
| Trong khuôn khổ Dự án “Hỗ trợ hành động sớm” do Quỹ Môi trường Toàn cầu (GEF) tài trợ thông qua Chương trình Môi trường Toàn cầu – GEF EAS, Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp cùng Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP) tại Việt Nam đã tổ chức hội thảo quốc gia với chủ đề “Tăng cường quản lý loài ngoại lai xâm hại tại Việt Nam”. - (Ảnh: Đại biểu nhân dân) |
Theo đánh giá của Diễn đàn Chính sách - Khoa học Liên chính phủ về Đa dạng sinh học và Dịch vụ hệ sinh thái (IPBES) và Công ước Đa dạng sinh học (CBD), loài ngoại lai xâm hại đang là một trong năm nguyên nhân hàng đầu gây suy giảm đa dạng sinh học toàn cầu, bên cạnh các yếu tố như khai thác quá mức, ô nhiễm, biến đổi khí hậu và thay đổi mục đích sử dụng đất.
Loài ngoại lai xâm hại là những sinh vật có nguồn gốc từ nơi khác, khi được đưa vào môi trường mới đã nhanh chóng phát triển và cạnh tranh với các loài bản địa, gây mất cân bằng sinh thái, suy giảm tài nguyên thiên nhiên, làm ảnh hưởng đến sản xuất nông nghiệp và sinh kế của người dân. Tại Việt Nam, nhiều loài như ốc bươu vàng, cây mai dương, lục bình đã trở thành những ví dụ điển hình cho sự xâm lấn và tác hại khó kiểm soát của sinh vật ngoại lai.
Báo cáo IPBES năm 2023 ghi nhận có tới hơn 3.500 loài ngoại lai xâm hại trên toàn thế giới đã gây ra những tổn thất nặng nề cho môi trường, với tổng thiệt hại tài chính toàn cầu lên tới hơn 420 tỷ USD mỗi năm. Trung bình mỗi năm có khoảng 200 loài ngoại lai mới được du nhập vào các vùng đất khác nhau do các hoạt động của con người như thương mại, du lịch và biến đổi khí hậu. Nếu không có biện pháp ngăn chặn và kiểm soát kịp thời, con số này được dự báo có thể tăng thêm một phần ba vào năm 2050 so với mốc năm 2005.
Là một quốc gia có mức độ đa dạng sinh học cao nhưng Việt Nam lại đang đối diện với nguy cơ bị tổn thương nghiêm trọng bởi làn sóng xâm lấn của các loài ngoại lai do nhiều nguyên nhân. Trong đó, việc thiếu dữ liệu giám sát dài hạn, nguồn lực đầu tư còn hạn chế, sự thiếu phối hợp hiệu quả giữa các ngành, và đặc biệt là nhận thức của cộng đồng về nguy cơ từ sinh vật ngoại lai còn thấp đang là những yếu tố khiến công tác quản lý và kiểm soát gặp nhiều khó khăn.
![]() |
| Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Quốc Trị phát biểu khai mạc tại hội thảo Tăng cường quản lý loài ngoại lai xâm hại tại Việt Nam. - (Ảnh: Nông nghiệp và Môi trường) |
Phát biểu tại hội thảo, Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Nguyễn Quốc Trị đã nhấn mạnh rằng việc kiểm soát và ngăn chặn loài ngoại lai xâm hại là một nhiệm vụ cấp thiết và phải được triển khai đồng bộ, từ cấp Trung ương đến địa phương, giữa các cơ quan quản lý, các tổ chức quốc tế và cộng đồng dân cư.
Ông cho biết Bộ Nông nghiệp và Môi trường đang phối hợp cùng UNDP để hoàn thiện các cơ chế chính sách phù hợp, bao gồm việc xây dựng hướng dẫn quốc gia về điều tra, giám sát và quản lý loài ngoại lai xâm hại. Đồng thời, Bộ cũng đang tiến hành rà soát, sửa đổi Thông tư 35 – văn bản pháp lý quy định về Danh mục loài ngoại lai xâm hại nhằm tạo cơ sở cho các địa phương thực hiện công tác kiểm soát hiệu quả hơn.
Tại hội thảo, bà Ramla Khalidi, Trưởng đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam, cũng chia sẻ những cảnh báo từ báo cáo IPBES và khẳng định loài ngoại lai xâm hại là một trong năm nguyên nhân hàng đầu dẫn đến mất đa dạng sinh học toàn cầu. Tuy nhiên, vấn đề này vẫn chưa được quan tâm đúng mức tại nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam. Bà nhấn mạnh tốc độ lan rộng của các loài này đang diễn ra với quy mô chưa từng có do các yếu tố như giao thương, du lịch và hoạt động của con người. Theo số liệu, chi phí thiệt hại liên quan đến loài ngoại lai đã tăng gấp 4 lần sau mỗi thập kỷ kể từ năm 1970, một con số khiến giới khoa học và các nhà hoạch định chính sách không thể làm ngơ.
![]() |
| Bà Ramla Khalidi – Trưởng đại diện thường trú UNDP tại Việt Nam - (Ảnh: vacne.org.vn) |
Cũng theo bà Khalidi, tại Việt Nam, hậu quả từ sinh vật ngoại lai xâm hại đã được ghi nhận rõ rệt qua nhiều ví dụ. Trong đó, ốc bươu vàng – một loài ngoại lai du nhập từ những năm 1990 – đã xâm nhiễm hơn 132 nghìn ha ruộng lúa trên khắp 57 tỉnh, thành phố vào năm 1997, gây ảnh hưởng lớn đến sản lượng lúa và an ninh lương thực của hàng triệu người dân. Lục bình – ban đầu được trồng như cây cảnh hoặc trồng làm thức ăn cho gia súc – đã lan rộng trên các tuyến sông, gây tắc nghẽn giao thông thủy và làm giảm chất lượng nguồn nước. Cây mai dương – một loài cỏ bụi có nguồn gốc từ Nam Mỹ – phát triển nhanh và che phủ hoàn toàn thảm thực vật bản địa, làm cản trở tái sinh tự nhiên của các loài cây rừng tại nhiều khu vực đất ngập nước.
Để đối phó với những nguy cơ hiện hữu, hội thảo đã tập trung bàn thảo các giải pháp mang tính hệ thống, khoa học và lâu dài. Một trong những mô hình được đánh giá là điển hình trong việc kiểm soát loài ngoại lai là câu chuyện thành công tại Vườn quốc gia Tràm Chim. Tại đây, vào năm 2006, cây mai dương đã xâm lấn trên diện tích lên tới 2.000ha. Tuy nhiên, với các biện pháp đồng bộ như điều tiết mực nước, kiểm soát định kỳ không dùng hóa chất, diện tích xâm lấn của mai dương đã giảm đáng kể xuống còn 22ha vào năm 2024. Thành công này không chỉ minh chứng cho hiệu quả của giải pháp sinh học mà còn là bài học để nhân rộng ra các vùng đất ngập nước khác như U Minh Thượng hay Trị An.
Một ví dụ khác đến từ vùng Đồng bằng sông Cửu Long, nơi người dân đã thu gom lục bình – loài ngoại lai gây hại – để chế biến thành phân hữu cơ, thức ăn chăn nuôi và đặc biệt là các sản phẩm thủ công mỹ nghệ. Đây là mô hình kết hợp giữa kiểm soát sinh vật gây hại và tạo sinh kế bền vững cho cộng đồng, phù hợp với định hướng phát triển kinh tế xanh và tuần hoàn tại các vùng nông thôn.
Trong khuôn khổ hội thảo, nhiều chuyên gia cũng chia sẻ và giới thiệu các phương pháp giám sát hiện đại đang được áp dụng ở một số quốc gia và bước đầu triển khai tại Việt Nam. Trong đó có công nghệ gen môi trường (eDNA), ảnh viễn thám từ thiết bị bay không người lái, mô hình hóa phân bố loài, trí tuệ nhân tạo và hệ thống ghi âm sinh học. Những công nghệ này hứa hẹn sẽ giúp tăng cường hiệu quả trong công tác phát hiện sớm, theo dõi, cảnh báo và kiểm soát loài ngoại lai, đặc biệt là tại các khu vực rừng sâu, vùng ven biển và khu bảo tồn thiên nhiên.
Bên cạnh các giải pháp kỹ thuật, hội thảo cũng dành thời gian thảo luận và lấy ý kiến góp ý cho dự thảo Thông tư quy định về Danh mục loài ngoại lai xâm hại. Văn bản này được kỳ vọng sẽ quy định rõ quy trình điều tra, xác định, thẩm định và ban hành danh mục loài ngoại lai, làm căn cứ cho việc triển khai đồng bộ trên cả nước.
Cục Bảo tồn thiên nhiên và Đa dạng sinh học – đơn vị trực thuộc Bộ Nông nghiệp và Môi trường – hiện đang xây dựng tài liệu hướng dẫn về kiểm soát các loài ngoại lai để cung cấp cho các tỉnh, thành phố. Phó Cục trưởng Hoàng Thị Thanh Nhàn cho biết, Luật đa dạng sinh học năm 2018 cũng đã quy định trách nhiệm cụ thể của UBND các cấp trong công tác điều tra, lập danh mục, kiểm soát lây lan và công khai thông tin về loài ngoại lai xâm hại.
Một điểm nhấn quan trọng tại hội thảo là sự chia sẻ bài học từ quốc tế, bao gồm các khuyến nghị trong báo cáo IPBES và kinh nghiệm từ các quốc gia đang phát triển như Sri Lanka. Các đại biểu đều thống nhất rằng cách tiếp cận hiệu quả phải dựa trên cơ sở khoa học, phát hiện sớm – ứng phó nhanh – kiểm soát tại nguồn và sự tham gia của đa bên: chính phủ, doanh nghiệp, nhà khoa học và cộng đồng dân cư.
TS Phạm Xuân Thịnh, Giám đốc Vườn Quốc gia Cát Tiên, cho biết: "Mỗi năm đơn vị phải chi từ 200 đến 250 triệu đồng để xử lý cỏ mọc sấp đang đe dọa vùng đất ngập nước Bàu Sấu. Tuy nhiên, đến nay vẫn chưa có cơ chế chi trả cho các hoạt động kiểm soát, xử lý sinh vật ngoại lai". Ông Thịnh đề xuất cần có thêm bộ hướng dẫn kỹ thuật cụ thể và định mức thanh toán dựa trên mật độ và diện tích (tính theo ha).
Ông cũng kiến nghị Bộ Nông nghiệp và Môi trường phối hợp với các địa phương xây dựng dự án thử nghiệm quy mô lớn, và Vườn Quốc gia Cát Tiên sẵn sàng làm mô hình điểm. Mục tiêu nhằm phát triển cơ sở dữ liệu thực tiễn và chia sẻ giải pháp khả thi, làm tiền đề xây dựng các kế hoạch diệt trừ hiệu quả hơn.
Về phía Cục Lâm nghiệp và Kiểm lâm, ông Nguyễn Văn Toàn cho rằng tăng cường hợp tác quốc tế, đặc biệt với các quốc gia có chung đường biên giới, giúp ngăn chặn sớm sự xâm nhập và phát tán của các loài ngoại lai ngay từ tuyến đầu.
Ông Toàn cũng nhấn mạnh việc cần thiết xây dựng một cuộc điều tra tổng thể và toàn diện về hiện trạng các loài ngoại lai trong rừng đặc dụng trên phạm vi cả nước. Từ đó, hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật về phân loại, kiểm soát và xử lý loài ngoại lai xâm hại, đảm bảo tính đồng bộ giữa các lĩnh vực liên quan gồm đa dạng sinh học, lâm nghiệp, thủy sản, chăn nuôi và trồng trọt.
Để đạt được mục tiêu trong Chiến lược quốc gia về đa dạng sinh học đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050, Việt Nam cần tăng cường sự phối hợp liên ngành giữa các lĩnh vực như nông nghiệp, môi trường, giao thông, kiểm dịch và các cấp chính quyền địa phương. Đồng thời, cần huy động mạnh mẽ hơn nữa sự tham gia của cộng đồng – từ việc nâng cao nhận thức đến chủ động tham gia vào các hoạt động bảo vệ hệ sinh thái. Khi mỗi người dân hiểu được tầm quan trọng và hậu quả từ loài ngoại lai xâm hại, họ sẽ trở thành những nhân tố tích cực trong quá trình giám sát và phản ứng sớm.
Hội thảo quốc gia không chỉ là sự kiện trao đổi học thuật và chính sách, mà còn là hồi chuông cảnh tỉnh về một mối đe dọa thầm lặng nhưng dai dẳng đối với môi trường Việt Nam. Từ những hành động cụ thể, từ sự hợp lực giữa các bên, và từ cam kết chính trị đến hành động cộng đồng, cuộc chiến với loài ngoại lai xâm hại hoàn toàn có thể kiểm soát – nếu được nhìn nhận một cách đúng mức, toàn diện và có chiến lược dài hạn. Chỉ khi đó, mục tiêu bảo vệ đa dạng sinh học và phát triển môi trường bền vững mới thực sự được đảm bảo cho các thế hệ mai sau.
Tin mới
Nước mía kết hợp bạc hà – “thức uống vàng” hỗ trợ thải độc thận
Bộ Nông nghiệp và Môi trường triển khai chiến lược khuyến nông quốc gia
Tin bài khác
Musa Pacta và hành trình nâng tầm thân chuối Việt Nam thành sản phẩm thủ công và sợi xuất khẩu
Chuyên gia hướng dẫn cách dùng tỏi, hành tây và gừng sống an toàn, tốt cho sức khỏe
Câu chuyện về loại tre có độ đàn hồi kỳ diệu
Đọc nhiều
Nửa thế kỷ gắn bó với nón lá, nghệ nhân gìn giữ và nâng tầm văn hóa làng Chuông
Miến dong Bình Lư – Làng nghề Tây Bắc giữa nhịp sống số hóa
Nhà vườn Phúc Tâm: Hành trình 16 năm kiến tạo tác phẩm “Theo dòng lịch sử”
Cây cổ thụ khổng lồ ở Phú Thọ: “Thượng thọ” hàng nghìn năm, vẫn xanh tốt và sai quả thơm ngát làng
Làng gốm Mỹ Thiện (Quảng Ngãi): Giữ lửa nghề truyền thống giữa thách thức thời hiện đại
An Dương, Hải Phòng gìn giữ làng nghề hoa – cây cảnh giữa áp lực đô thị hóa
Nữ nghệ nhân gốm Chu Đậu giữ nghề trăm năm
Chuyện một dòng họ gìn giữ “báu vật xanh” trăm tuổi ở Hà Tĩnh
Bánh đa nem làng Chều, Ninh Bình đổi mới để giữ nghề
Hồi sinh nghề chiếu cói truyền thống ở Tiên Kiều, Hải Phòng
Bà mẹ Bắc Ninh biến sân thượng 100 m² thành “siêu thị rau sạch” giữa mùa bão giá
Nước mía kết hợp bạc hà – “thức uống vàng” hỗ trợ thải độc thận
Chuyên gia hướng dẫn cách dùng tỏi, hành tây và gừng sống an toàn, tốt cho sức khỏe
Musa Pacta và hành trình nâng tầm thân chuối Việt Nam thành sản phẩm thủ công và sợi xuất khẩu
Trà xanh pha chanh: Bí quyết tự nhiên giúp giảm mỡ nội tạng và thải độc gan thận
Theo bước chân rừng: Người phụ nữ kiến tạo mô hình đa tầng dược liệu bền vững
Đuổi gián hiệu quả mà an toàn với 5 loại cây phổ biến ở Việt Nam
7 cách dùng gừng tươi giúp hỗ trợ làm mờ nám da tại nhà
Gỡ điểm nghẽn chất lượng để sầu riêng Việt Nam xuất khẩu bền vững
Cấy Nền Mùa Vàng 2025: Hành trình về Cổ Loa tìm lại bản sắc Việt
Cà Mau xây dựng chuỗi giá trị ngành cua, hướng tới xuất khẩu bền vững
Bộ Nông nghiệp và Môi trường triển khai chiến lược khuyến nông quốc gia
ĐBSCL kỳ vọng ngành dừa bứt phá nhờ công nghệ và chế biến sâu
Quả quen thuộc được Mỹ đánh giá “tốt nhất thế giới”, giá rẻ, tốt cho cơ thể
Bí quyết của nông dân Tây Ninh biến vườn lan Dendro Thái thành “mỏ vàng” tiền tỷ
Người đánh thức vẻ đẹp "sắc hương đạm nhã" của hoa Thủy Tiên
Thứ cây "hái ra tiền" ở Thái Nguyên: Cơ hội làm giàu hay rủi ro khi trồng ồ ạt?
Câu chuyện về loại tre có độ đàn hồi kỳ diệu
Hà Nội vào mùa cúc họa mi – sắc trắng tinh khôi đánh thức những ngày đầu đông
Phong thủy trong sân vườn: Dứa Nam Mỹ giúp gia chủ bình an, sự nghiệp hanh thông
Cỏ linh
4 loài cây mang năng lượng cát lành, hút tài lộc và giúp gia chủ khỏe mạnh quanh năm
3 loại cây càng trồng càng sang, được giới chơi cảnh ưa chuộng vì bền đẹp
Thăm khu vườn của nghệ nhân Nguyễn Thành, xã Đông Sơn, Quảng Ngãi
Nghệ nhân Nguyễn Hữu Thọ chế tác vỏ trai tai tượng cổ độc đáo tại Quảng Ngãi
Dòng tre khổng lồ ở Quảng Ngãi tạo thu nhập kinh tế cho người nông dân
Thăm vườn cảnh đẹp Phạm Thùy ở Kiến Thụy, Hải Phòng



