Mục lục
VNHS - Ngày nay, rất nhiều quốc gia trên thế giới hướng đến phát triển kinh tế xanh, trong đó có du lịch xanh. Kinh nghiệm các nước cho thấy, trong xây dựng và phát triển hoạt động du lịch xanh, cần có một hệ thống luật pháp để giám sát và điều chỉnh. Bên cạnh đó, cũng cần có 1 bộ tiêu chí, chứng nhận về du lịch xanh…
Trong xu thế chung của thế giới, Việt Nam cũng đang hướng đến phát triển kinh tế xanh, trong đó có du lịch xanh
Có nhiều cách hiểu về du lịch xanh được đưa ra nhưng tựu chung có thể hiểu, du lịch xanh là hoạt động du lịch đến các điểm đến nơi có hệ thực vật, động vật và di sản văn hóa là những điểm thu hút chính, bao gồm du lịch bền vững với môi trường và các tác động khí hậu được giảm thiểu với mục đích tôn trọng và bảo tồn tài nguyên thiên nhiên.
Trên thế giới đã có rất nhiều nước phát triển du lịch xanh. Tại Anh, kinh doanh du lịch xanh được xác định từ năm 1997. Đây là chương trình lớn mục đích chính là đảm bảo đất nước vẫn dẫn đầu về du lịch bền vững trong tương lai. Bằng cách sử dụng các cơ sở kinh doanh được công nhận bởi đề án Kinh doanh Du lịch Xanh cho kỳ nghỉ hoặc lưu trú qua đêm, du khách có thể yên tâm rằng, cơ sở lưu trú mà họ lựa chọn đã đáp ứng một số tiêu chí về môi trường. Cải thiện tính bền vững trong khi vẫn cung cấp dịch vụ chất lượng cao là điều bắt buộc tại nước Anh và tất cả các nhà cung cấp dịch vụ lưu trú phải đạt được xếp hạng sao trước khi họ có thể đạt được xếp hạng xanh.
Khái niệm du lịch xanh ở các nước phát triển như ở Nhật Bản tương tự như khái niệm du lịch nông thôn, nơi nó được tiến hành trong môi trường tự nhiên và mang lại cho khách du lịch cơ hội trải nghiệm văn hóa địa phương và lối sống nông thôn. Cư dân nông thôn tham gia vào ngành nông nghiệp và lâm nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc quản lý môi trường.
Du lịch xanh ở Nhật Bản tập trung nhiều hơn vào môi trường của các khu vực nông thôn và do người dân quản lý, mặc dù nguồn vốn cần thiết cho các doanh nghiệp được chia sẻ bởi chính quyền trung ương và địa phương cũng như cư dân nông thôn. Trong khi việc bán các sản phẩm nông thôn là quan trọng, thì việc tương tác giữa con người với người dân được chú trọng nhiều hơn.
Du lịch xanh ở Nhật Bản là loại hình du lịch nông thôn sử dụng cả văn hóa nông thôn vốn được nuôi trồng theo truyền thống nông nghiệp và lâm nghiệp lâu đời, cũng như bản chất của các vùng nông thôn, chẳng hạn như rừng và thiên nhiên thứ sinh dưới dạng đất nông nghiệp, như là điểm tham quan.
Ở Malaysia, việc thực hiện du lịch xanh còn khá mới mẻ và chỉ giới hạn ở việc khuyến khích sử dụng các sản phẩm xanh, cung cấp các chương trình đào tạo về quản lý môi trường và giới thiệu các kỹ thuật quản lý chất thải như tái chế đặc biệt bởi các khu nghỉ dưỡng tham gia. Các khu nghỉ dưỡng tham gia vào lĩnh vực du lịch xanh đã đào tạo và giáo dục nhân viên của họ về cách sống thân thiện với môi trường mặc dù tính toàn diện của chương trình đào tạo không nhất quán giữa các khu nghỉ dưỡng. Mục đích chính là tiết kiệm nước, năng lượng và giảm thiểu chất thải và các khu nghỉ dưỡng tích cực giám sát hoạt động này đã quản lý để cắt giảm đáng kể chi phí hoạt động của họ.
Người dân được khuyến khích chuyển sang các thiết bị tiết kiệm năng lượng, sử dụng thẻ khóa, xây dựng nhà máy xử lý nước, tách chất thải rắn và lỏng, và tái chế. Khách nghỉ dưỡng cũng được khuyến khích sử dụng lại khăn tắm và khăn trải giường của họ với thông báo trong phòng để tiết kiệm tài nguyên như nước và bột giặt. Một số khu nghỉ dưỡng cũng sử dụng vật liệu xây dựng bền vững và vật liệu địa phương trong thiết kế kiến trúc và xây dựng.
Kinh nghiệm các nước cho thấy, để xây dựng và phát triển hoạt động du lịch xanh, Việt Nam cần có một hệ thống luật pháp để giám sát và điều chỉnh. Với quyết tâm xây dựng “Du lịch xanh” trong ngành du lịch, các quy định mang tính pháp quy cần phải có, để yêu cầu các tổ chức, doanh nghiệp, du khách… thực hiện hoạt động du lịch của mình phải có nghĩa vụ đối với môi trường.
Để đánh giá hoạt động du lịch có đảm bảo đang diễn ra theo đúng định hướng “Du lịch xanh” hay không, cũng cần xây dựng được một bộ tiêu chí cụ thể để đối chiếu và chứng nhận chứng chỉ. Bộ tiêu chí này cần bao hàm cả các lĩnh vực như lưu trú, lữ hành, ẩm thực, tham quan...
Trong đó, "chứng nhận được" là một thủ tục nhằm đánh giá, kiểm tra và đưa ra đảm bảo bằng văn bản rằng, một cơ sở, sản phẩm hoặc dịch vụ đáp ứng các tiêu chuẩn cụ thể và có thể bán được trên thị trường cho phân khúc khách hàng có nhu cầu mua những sản phẩm, dịch vụ đáp ứng hoặc vượt quá các tiêu chuẩn cơ sở.
Để thực hiện cần có một cơ quan đặt ra các tiêu chuẩn chứng nhận đáng tin cậy. Tổ chức chứng nhận phải không có xung đột lợi ích và các chỉ số để đáp ứng các tiêu chuẩn được công nhận.
Việc sử dụng chứng chỉ du lịch xanh do cơ quan có uy tín cấp thường nhằm mục đích: Kiểm soát các tác động tiêu cực đến môi trường của du lịch đối với cơ sở tài nguyên thiên nhiên của các khu vực điểm đến bằng cách khuyến khích các doanh nghiệp du lịch đạt được các tiêu chuẩn môi trường cao; Giáo dục khách du lịch về tác động của các hành động và quyết định của họ; Xây dựng các tiêu chuẩn cho các sản phẩm và dịch vụ du lịch thân thiện với môi trường.
Việc đạt được chứng chỉ xanh cũng sẽ giúp các doanh nghiệp tạo ra các lợi thế cạnh tranh nhất định, còn đối với môi trường và xã hội sẽ nhận được những lợi ích bảo tồn và phát triển bền vững.
Minh Anh